Ngược Về Thời Minh

Chương 125: Q.4 - Chương 125: Trong Hỏi Ngoài Tra






Thấy y cứ cựa quậy mãi, Cao Văn Tâm không khỏi vừa giận vừa cáu, nhất thời lỡ tay vỗ mạnh, một tiếng "chát" giòn giã vang lên khiến chính nàng cũng sững sờ. Dương Lăng há hốc mồm, quay đầu ngạc nhiên nhìn nàng, một lúc lâu Cao Văn Tâm mới sực tỉnh. Nàng vội vàng quỳ xuống đất thưa:

- Tiểu tỳ vô lễ, xin lão gia trách phạt!

Đừng nói nàng chỉ là thị tỳ của Dương Lăng, cho dù là thê thiếp của y, bất kể là thân mật với trượng phu như thế nào cũng không được phép đánh vào mông của y, đó là hành vi cực kỳ vô lễ. Khi còn giúp người chẩn bệnh, Cao Văn Tâm từng nghe kể có vị cử nhân lớn tuổi đuổi vợ với tội danh là phẩm hạnh kém. Thực ra là vì trong lúc vui vẻ với trượng phu, người vợ hơi thất thố, bị cử nhân lão gia cho là bất kính nên đuổi đi, hại nàng ta xấu hổ nhục nhã mà tự vận.

Dương Lăng lại không có loại giác ngộ mà đại nam nhân nên có này, y chỉ bị hành động đột ngột của nàng làm cho ngây người ra thôi. Lúc này trông thấy nàng sợ đến độ môi trắng bệch, bản thân y lại cảm thấy áy náy, thế là y đành cười lớn rồi bảo:

- Là do tôi không phải, đột nhiên nhổm người nên cô trở tay không kịp. Ờm, lần sau khi xoa bóp, cô nhẹ tay một chút là được rồi.

Cao Văn Tâm thấy y hoàn toàn không hề nổi giận, còn vì mình mà bào chữa thành “xoa bóp” mới yên tâm. Nàng bẽn lẽn đứng dậy tiếp tục châm cứu cho y. Đến khi kéo quần lót y xuống để châm cứu, nhìn thấy mông y bị vỗ đỏ ửng cả một vùng, Cao Văn Tâm không khỏi lén le lưỡi. Không biết là cố ý hay vô tình mà mu bàn tay nàng xoa nhẹ vài vòng lên “vết thương”. Bàn tay ngọc ngà trơn nhẵn chạm vào thực là cực kỳ dễ chịu khiến Dương Lăng lâng lâng đắc ý.

Châm cứu xong, Dương Lăng lập tức chỉnh đốn lại y phục rồi bảo:

- Nha hoàn và nô bộc trong phủ hiện nay đều là người của Mạc công công, không thích hợp để tôi xử lý công vụ thường ngày cho lắm. Có cô ở bên cạnh tôi là đủ rồi, không cần người khác hầu hạ nữa. Ngôi nhà này nhất định phải hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của người chúng ta. Cô bảo Trịnh bách hộ mang đám nha sai tiếp quản tòa nhà, đưa toàn bộ người của Mạc phủ rời khỏi đây, sau đó kêu Liễu Bưu đến gặp tôi.

Cao Văn Tâm thấy sắc mặt y nghiêm nghị, đích xác y có việc công cần làm nên không dám ngăn trở thêm, bèn vội đáp lời. Nàng ra ngoài được khoảng uống cạn một tuần trà thì đám nha sai bắt đầu đứng gác rải rác khắp nơi trong dãy nhà, đuổi tất cả nha hoàn, nô bộc của Mạc công công ra khỏi căn dinh thự độc lập này, cả trong lẫn ngoài bố trí đầy thị vệ của Nội xưởng. Sau đó, cửa phòng mở ra, một người ăn mặc như nha sai bình thường chợt lặng lẽ đi vào.

Dương Lăng ngồi bên bàn, mới vừa rót đầy hai chén trà. Sau khi bị “đày đọa” một phen, men rượu của y đã vơi đi mấy phần, ánh mắt cũng đã tỉnh táo lại. Trông thấy Liễu Bưu bước vào, y khoát tay bảo:

- Không cần khách sáo, đến đây! Ngồi xuống rồi hãy nói!

Liễu Bưu chắp tay thưa:

- Dạ! Ty chức ra mắt xưởng đốc đại nhân.

Rồi bước nhẹ nhàng đến ngồi đối diện với Dương Lăng. Gần nửa tháng xa cách bỗng nhiên gặp lại Dương Lăng, nét mặt của hắn hơi lộ vẻ vui mừng.

Dương Lăng đẩy một chén trà qua, bảo:

- Những ngày qua vất vả cho Liễu thiên hộ quá! Huynh nghe ngóng được thế nào rồi?

Liễu Bưu thưa:

- Đại nhân! Ty chức vừa xuống tới Giang Nam liền lập tức tung mạng lưới thám thính, cho người giả làm người bán dạo và du khách dò thám tin tức xung quanh. Ba vị thái giám trấn thủ nắm giữ thuế má Giang Nam đã nhiều năm, tuy đâu đâu cũng có thế lực, nhưng cũng bởi vậy bọn họ không thể nào che giấu được những hành vi, công việc của mình.

Hắn nói đến đây, hiển nhiên hết sức tự hào với thành tích của bản thân cho nên vẻ mặt có phần tự kiêu. Hắn cầm chén trà lên nhấp một ngụm thấm họng rồi lôi trong ngực ra một quyển sổ nhỏ, nâng hai tay trao cho Dương Lăng:

- Đại nhân! Những gì ty chức điều tra được đều ghi ở trong này.

Trước tiên ty chức sẽ nói qua về viên trấn thủ thuế quan kiêm giám quân Long Sơn vệ sở Viên Hùng. Nhiệm vụ của Viên Hùng là lập trạm thu thuế trên những con đường vận chuyển thủy bộ giữa những quan ải và thành trấn trọng yếu. Ví dụ như trên tuyến vận chuyển đường sông, cách mỗi bốn mươi dặm lại cắt cử thuế sứ (nhân viên thu thuế - ND) ngăn sông chặn thuế, một chiếc thuyền đi ba bốn trăm dặm ít nhất phải bị chặn thu thuế năm sáu lần. Nhiều cửa tiệm tơ lụa, tạp hoá địa phương có quy mô nhỏ không kham nổi gánh nặng thuế khóa đã phải đóng cửa.

Dương Lăng nghe xong nhíu mày: "Thuế khoá quá nặng, nhìn ngắn hạn thì số thu có phần dồi dào, nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt, thực tế lại chèn ép sự phát triển của công thương nghiệp, về lâu dài sẽ rất có hại cho dân chúng và quốc gia. Viên Hùng cứ cách bốn mươi dặm lại lập một trạm thu thuế, rõ ràng đã vượt quá quy định của triều đình.

Có điều những phương sách này nhất định cũng đã được sự đồng ý của ty Lễ Giám, ta không thể dùng sai sót này để trừng trị hắn. Huống hồ chính là nhờ những món thuế khoá hà khắc phạm pháp và hợp pháp này cho nên mô hình vận chuyển của Nội xưởng mới được lan rộng, Nội xưởng mới phát triển nhanh chóng như vậy. Muốn hoàn thành mục tiêu cao xa hơn của mình, đành phải có những hy sinh tạm thời như thế này vậy!"

Y trầm ngâm hồi lâu, âm thầm tính toán một hồi rồi nói:

- Ừ, bản đốc đã ghi nhớ chuyện này. Hắn còn hành vi phạm pháp nào khác có thể buộc tội không?

Liêu Bưu mỉm cười, dường như sớm biết việc đó không đủ để trị tội Viên Hùng. Hắn trả lời như đã liệu trước:

- Có. Ty chức phái người đóng giả làm tiểu thương buôn bán rượu thịt, giao thiệp với quan binh của vệ sở Long Sơn. Trong lúc tửu hậu có nghe bọn họ cằn nhằn rằng quân lương bộ Hộ phân phát chỉ có bốn thành rơi vào tay bọn họ, số còn lại đều bị Viên giám quân và đám quan viên chỉ huy vệ sở tham ô cả.

Hơn nữa, trước đây quan binh vệ sở ai nấy cũng đều có đất đai của riêng mình, nhưng những năm gần đây đã sớm bị cường hào và tướng tá dùng thủ đoạn ép mua ép bán chiếm đoạt lấy. Việc này khiến cho rất nhiều quan binh vì cuộc sống của người nhà mà đành phải đào tẩu lưu vong.

Vệ sở Long Sơn vốn phải có 6500 người trú đóng, nhưng con số quan binh thực có hiện tại chỉ là 2800 người, vả lại đa số đều là quân già lính yếu; số còn lại đều bị lĩnh khống tiền lương lẫn trang bị. Thậm chí khí giới lại càng ít đến thảm thương, rất nhiều chiến thuyền đã không thể sử dụng được từ lâu, khi sắp có thượng quan đến kiểm tra sẽ trưng dụng tạm thuyền đánh cá bổ sung vào cho đủ. Đến lúc giặc Oa(1) tập kích thì chỉ có thể nghe thấy tiếng đã phải chạy dài. Tuyến phòng thủ bờ biển dài mấy ngàn dặm hầu như chỉ tồn tại trên giấy.

Dương Lăng nghe xong không nén được lửa giận, đập bàn chát một tiếng mắng:

- Không ngờ việc quân đội nội địa lại buông thả như vậy! Chẳng trách lúc ở kinh sư ta nghe nói cho dù chỉ vẻn vẹn mấy trăm tên giặc Oa cập bờ cũng có thể xông vào tập kích khắp nơi như chốn không người...

Nói đến đây y chợt nhớ đến một chuyện, lấy làm lạ hỏi:

- Có điều... Khi ta còn ở huyện Kê Minh, lúc giặc Thát đến tập kích, quân sỹ phương Nam được điều đến cứu viện đều đầy đủ quân số, vũ khí trang bị cũng không tệ, hình như... Liễu Bưu, huynh xác định tin tức do thám không nhầm lẫn chứ?

Liễu Bưu ngạc nhiên, đáp:

- Ty chức điều tra hết sức kỹ lưỡng, sẽ không có nhầm lẫn đâu. Vì phương Nam không bị cường địch như giặc Thát uy hiếp, giặc Oa có lên bờ cướp bóc một phen xong cũng đi ngay, hoàn toàn không dám ở lâu, cho nên việc phòng bị luôn luôn lỏng lẻo. Không biết quân phương Nam điều lên Bắc mà đại nhân nói đến là do ai chỉ huy vậy?

Dương Lăng trả lời:

- Ờ... Ta cũng không biết bọn họ thuộc đội quân của ai. Song ta nhớ đô ty dẫn binh tên gọi là Tất Xuân.

Liễu Bưu nghe vậy bật cười giải thích:

- Đại nhân! Chỉ huy sứ của vệ sở Long Sơn chính là Tất Xuân. Thật ra khi Nam quân được điều lên phía Bắc, để phòng ngừa triều đình nhìn ra sơ hở, quân sĩ được điều động thông thường đều là quân tinh nhuệ được điều động từ vệ sở các nơi bù vào cho đủ số. Vì việc này có lợi cho quân vệ sở mọi nơi ở Giang Nam, cho nên những tướng lĩnh ở đây cũng đều ủng hộ hết lòng. Đội quân của Tất Xuân mà đại nhân thấy nhất định là do vài đội quân vệ sở có sức chiến đấu mạnh nhất chắp vá lại.

Dương Lăng nghe xong ngẩn người một lát, rồi mới giận dữ mắng:

- Thủ đoạn giỏi lắm! Chuyện khác ta còn có thể tạm thời ẩn nhẫn, nhưng bọn họ tự hủy trường thành (ý là hủy hoại quân đội, lực lượng chính bảo vệ đất nước) thì chuyện này ta không thể nhẫn nhịn được. Ta sẽ khai đao với hắn trước, giết gà doạ khỉ, để vệ sở duyên hải bớt phóng túng một chút. Huynh hãy tiếp tục thu thập tình báo của bọn chúng, chú ý đừng bứt dây động rừng.

Liễu Bưu hào hứng đáp:

- Ty chức tuân mệnh! Lại nói về vị thứ hai, trấn thủ thuế giám dệt may Lý Đại Tường. Ngành dệt tơ của Tô Hàng được phân công cực kỳ chặt chẽ, hiện có các loại thợ chuyên môn như thợ sợi bông, thợ vải đoạn, thợ dệt; những đại phú thương mở phường dệt may còn thuê hàng loạt thợ thủ công nữ chuyên phụ trách kéo sợi, nhuộm màu, sửa máy*, thêu hoa.

(*: chắc chỉ là sửa chữa các dụng cụ dệt cổ xưa)

Tính tình của Lý Đại Tường lại không quá kiêu căng, nhưng dệt may Tô Hàng vang danh thiên hạ, thu lợi rất nhiều. Hắn ngầm sai thân tín đội lốt thương nhân, lợi dụng chức quyền ép giá thu mua, đầu cơ trục lợi nên kiếm được món lãi kết xù. Phú hào cả vùng Tô Hàng đều oán giận mà không dám nói ra.

Như dân chúng phủ* Tùng Giang, đa số đều theo nghề phụ là dệt vải, mỗi ngày được một xếp (cuộn); sản lượng vải vóc do ngàn vạn bá tánh sản xuất nội trong một ngày đã đủ hoàn thành kế hoạch. Tiểu dân vùng Gia Thiện lấy nghề kéo sợi làm kế sinh nhai, sản lượng càng lớn vô cùng. Nơi này có câu rằng “vải Tùng Giang mua hoài không hết, sợi Ngụy Đường thu mãi vẫn còn”. Toàn bộ những thứ vải vóc tơ sợi này đều bị hắn độc quyền ép giá thu mua, rồi lại tập trung chuyển bán khắp nơi. Bởi có thể thu được món lợi kếch sù từ trong đó rồi cho nên hắn tự nhiên không cần vơ vét đến nỗi bị người người căm ghét như Viên Hùng.

*phủ: đơn vị hành chánh trên huyện

Vả lại vùng Hồ Châu trồng dâu nuôi tằm, phần đông dân chúng Sơn Đông và Hà Nam trồng trọt cây bông vải. Bởi dệt may Tô Hàng cần rất nhiều nguyên liệu từ những địa phương này vận chuyển vào, mà Viên Hùng lại nắm giữ thuế quan, cản trở vận chuyển những món hàng này nên cực kỳ bất lợi cho sự phát tài của Lý Đại Tường, vì vậy giữa hắn và Viên Hùng có mâu thuẫn rất sâu.

Dương Lăng âm thầm gật đầu. Thật ra tập trung thu mua, tập trung vận chuyển, tập trung buôn bán đều có ích, ví bằng sự bóc lột của Lý Đại Tường không quá hà khắc, có thể chừa lại con đường sống cho dân chúng thì không cần thiết phải so đo với hắn về chuyện này trong giai đoạn hiện tại.

Suy cho cùng, tuy bản thân Dương Lăng nắm quyền thuế giám, nhưng không ai có thể tự thân trấn thủ mọi nơi trong cả nước, cuối cùng y vẫn cần phải dựa vào những người này làm việc cho mình. Nếu như triều đình không thể hoàn mỹ về mặt pháp chế và chế độ thì cho dù đổi cả một đám quan lại cũng chưa chắc những người mới đã liêm chính hơn bọn cũ. Muốn chính trị trong sạch, không phải là chuyện chỉ trù tính mà thành. Cho dù không có đám thuế giám chuyên quyền này đi chăng nữa, nhưng sờ sờ trước mắt là những món lợi to có thể kiếm chác dễ dàng như vậy, lẽ nào thay một đám quan tham thì sẽ hết tham quan?

Dương Lăng nghĩ đến đây bèn gật đầu nói:

- Ừ, người này mặc dù tham ô, nhưng tâm địa không tính là quá xấu, là người có thể lung lạc được. Đúng rồi, còn vị Mạc công công này thì thế nào?

Liễu Bưu cười thưa:

- Trong ba vị thái giám trấn thủ, người có thanh danh tốt nhất chính là vị Mạc công công này. Thuế ruộng Giang Nam được quy thành ngân lượng. Những năm đầu khai quốc, bản triều đã quy định bốn thạch thóc gạo phải nộp một lạng bạc; về sau tỷ suất quy đổi thay đổi lớn, mỗi thạch thóc gạo bị trưng thuế một lạng bạc. Thuế nông nghiệp nơi đây chẳng khác nào đã bị tăng thêm ba lần.

Dân chúng nói rằng:

"một mẫu ruộng công bảy đấu thâu,

trước đem sáu đấu nộp Hoàng châu,

chỉ chừa một đấu chờ khi cưới,

dân chúng lo âu đến bạc đầu".

Như vậy ta có thể thấy sự hà khắc của thuế khoá như thế nào! Nếu không phải Giang Nam trù phú, gạo cá được mùa, dân chúng đã sống không nổi từ lâu.

Bởi dân chúng phải vận chuyển lương thực ra ngoài bán đổi lấy ngân lượng mới có thể nộp thuế, vốn đã bị hao hụt khi vận chuyển lại còn bị tên Viên Hùng đánh thuế không ngừng, cho nên vận chuyển ra ngoài năm đấu, bọn họ có thể cầm tiền của ba đấu về đã coi như tương đối tốt đẹp rồi.

Sau khi Mạc công công trấn thủ Giang Nam, mỗi năm đến mùa thu hoạch hắn đều phái người dùng ghe thuyền quan phủ chủ động đến tận nhà dân thu mua. Tuy rằng hắn thu mua thấp hơn giá chợ một chút, nhưng so với thuế khóa và hao tổn dọc đường, bá tánh vẫn được lợi hơn là tự mình vận chuyển đến chợ bán, thành thử ai nấy đều vui vẻ bán cho hắn. Vì vậy thanh danh của Mạc công công rất tốt, dân chúng Giang Nam gọi hắn là thiện nhân.

Ngày đó trên thuyền Dương Lăng thấy Mạc công công gan lớn trùm trời, thậm chí cả trà tiến cống dâng cho hoàng thượng cũng dám đánh tráo, y cho rằng hắn chỉ là một tên hoạn không sợ chết, trong mắt chỉ có tiền mà thôi. Nào ngờ lại nghe báo hắn tốt bụng như vậy, y không khỏi lấy làm lạ hỏi:

- Nói như vậy, hắn là thanh quan ư?

Liễu Bưu cười ha hả đáp:

- Không thể xem là thanh quan! Suy cho cùng hắn làm như vậy cũng là vì muốn trục lợi cá nhân mà thôi. Lương thực nhiều như vậy, nếu mỗi thạch lương thực hắn đều kiếm chác được sơ sơ thì gom góp lại cũng đã được một ngọn núi vàng rồi. Có điều, cho dù nói thế nào đi chăng nữa thì dân chúng cũng được hưởng lợi. Những người dân này mặc kệ ngươi tham ô hay không tham ô, chỉ cần lúc cần kíp ngươi có thể chiếu cố bọn họ một chút, bọn họ đã cảm kích không thôi rồi.

Vả lại... Vì Mạc công công trông giữ cực nghiêm những loại vật phẩm quý hiếm, có giá cao như trà, hương liệu, dược phẩm, muối ăn, … thậm chí chịu trách nhiệm tổ chức dân công đi xây dựng công trình cũng không ít, cho nên phần ngân lượng hắn thu được cũng phong phú vô cùng. Chỉ là trong ba người, Mạc công công được xem là kẻ rộng rãi nhất. Nếu gặp năm tai ương, hắn còn thường xuyên dựng lều thí cháo cứu sống không ít nhân mạng, cho nên thanh danh cực tốt.

Dương Lăng đứng dậy, bước chậm rãi trong phòng vài bước, trầm tư hồi lâu rồi mới quả quyết ra lệnh:

- Được! Sáng sớm ngày mai huynh hãy điều động người của huynh đến chỗ Viên Hùng, điều tra hắn kỹ càng lại cho ta. Còn về phần ta thì... ha ha, bản đại nhân du hành Giang Nam chỉ phụ trách du sơn ngoạn thủy, những thứ khác sẽ không phụ trách. Ngày mai ta sẽ đến Sư Tử thôn uống trà.

Là tâm phúc của Dương Lăng nên Liễu Bưu đã sớm biết kế hoạch của y, nghe vậy bèn đứng dậy hỏi:

- Đây là đại nhân muốn đánh Viên, lôi kéo Lý, Mạc chăng?

Dương Lăng cười nói:

- Ha ha! Dù sao cũng không thể một gậy đánh giết hết thảy được. Nếu làm thế tất cả thái giám trấn thủ trong cả nước đều dở quầy cất sạp, triều đình không còn bạc để dùng, há chẳng phải sẽ lại đẩy ty Thuế Giám về tay ty Lễ Giám ư?

Tuy là nói như vậy, nhưng chuyện Mạc Thanh Hà tráo trà tiến cống vẫn đeo nặng trong lòng y, cho nên y muốn ngày mai đến thôn Long Tỉnh trên núi Sư Tử tự mình thị sát. Vào thời tiết này đương nhiên không có trà ngon gì, lần này y đi kiểm tra, một là muốn để ba đại thái giám trấn thủ bớt lo âu, cho rằng y cũng chỉ là hư trương thanh thế chứ tịnh không có ý xử lý bọn họ, hai là để bóng gió thăm dò ý tứ của Mạc Thanh Hà.

Liễu Bưu cười đáp một tiếng, vừa tính quay người lui ra, Dương Lăng chợt nhớ đến chuyện kỳ lạ mình vừa chứng kiến khi nãy, vội giữ y lại, hỏi:

- Liễu Bưu! Có chuyện này ta muốn hỏi huynh. Thái giám Đại Minh chúng ta... cũng có thể cưới vợ sao?

Liễu Bưu ngẩn người ra. Hắn đã âm thầm điều tra kỹ càng ba vị thái giám trấn thủ nên hiển nhiên biết rõ chuyện gia đình bọn họ như lòng bàn tay. Vì vậy, hắn chỉ hơi ngẩn người liền sực tỉnh, cười đáp:

- Phải chăng đại nhân đã gặp mặt phu nhân của Mạc công công rồi?

Dương Lăng kinh ngạc:

- Huynh cũng biết? Chẳng lẽ... Mạc công công vốn sau khi xuất gia... à… sau khi lập gia đình rồi mới tiến cung sao?

Liễu Bưu bật cười đáp:

- Đại nhân hiểu lầm rồi. Thật ra trong nội cung, việc thái giam cùng cung nữ kết làm phu thê cũng không phải là ít, có điều bọn họ không gọi là phu thê, mà gọi là "Đối thực" và "Thái hộ"(2), giữa khác giới có, giữa cùng giới cũng có nữa, chuyện này đã có từ xưa. Thời hoàng đế Hồng Vũ bản triều đã từng cấm đoán một đoạn thời gian, về sau rồi cũng buông trôi bỏ mặc. Bây giờ cho dù Hoàng Thượng, Hoàng Hậu có nghe nói đến cũng sẽ không can dự vào.

Những công công địa phương có quyền có thế không những có thể cưới vợ nhận con nuôi, mà vợ cưới về còn thường là con gái ngoan của những gia đình quan lại. Nhưng vị phu nhân của Mạc công công lại có xuất thân phong trần, nghe nói trước đây là đệ nhất danh kỹ của "Lầu Xuân Vũ" ở Giang Nam.

Dương Lăng nghĩ đến phong tình tuyệt thế của vị mỹ nữ ấy, không khỏi bật cười nói:

- Ta nói thật nhé! Hôm nay gặp cô ta mà ta giật cả mình, còn tưởng là đó là người vợ Mạc công công cưới về trước khi nhập cung, bằng không làm sao hắn có gan dám công nhiên dùng thân phận thái giám để cưới vợ như vậy!

Y vừa nói vừa nghĩ đến người con gái Giang Nam muôn vẻ phong tình ấy lại gả cho một tên thái giám, không khỏi lắc đầu thở dài, rất lấy làm tiếc rẻ.

Liễu Bưu thưa:

- Đại nhân! Ngài đừng thấy bọn họ là giả phượng hư hoàng(3) mà coi khinh, so với người thường thì những cặp vợ chồng thái giám này càng mặn nồng hơn nhiều. Về những cặp “thái hộ” trong cung, thường là một khi đôi lứa nên duyên thì sẽ kính trọng và yêu thương nhau cả đời không đổi. Nếu ngẫu nhiên có thái giám hoặc cung nữ thay lòng đổi dạ, đối phương thường sẽ đau khổ không thiết sống, thậm chí vì vậy mà thắt cổ tự vẫn, chuyện đắng cay này trong cung chẳng lạ lùng gì.

Đa số bọn họ nếu như có một người chết trước, đối phương cũng cả đời không kết duyên lần nữa mà sẽ đặt linh vị của đối phương trong phòng mình, mỗi khi đến ngày giỗ cũng đều thường khóc thương thảm thiết, khóc đến chết đi sống lại. Tình cảm của bọn họ... thật không phải là thứ mà người thường chúng ta có thể lý giải.

Có điều cưới vợ ngoài cung cũng có thể mặn nồng được như vậy hay không thì ty chức không biết.

Quả thật lúc ban đầu Dương Lăng cũng hơi khinh rẻ chuyện thái giám cưới vợ, nhưng nghe Liễu Bưu nói xong, y mới tỉnh ngộ. Những người đó mặc dù về mặt sinh lý đã không thể được gọi là đàn ông, nhưng về mặt tâm lý họ lại muốn hưởng cuộc sống của người bình thường; lòng mong muốn đó còn bức thiết hơn hẳn những người đàn ông bình thường. Kể ra cũng thật khiến người ta đồng tình.

Dương Lăng bỗng bật cười nói:

- Nghe được một câu của huynh còn hơn đọc sách mười năm, bản quan đã lĩnh giáo. Chỉ cần người ta đôi bên đều tình nguyện, chúng ta quả thực không nên vì hắn là thái giám mà ba lời bốn ý làm gì.

Chú thích:

(1) thời xưa người Nhật Bản thấp bé nên bị gọi là người lùn (oa nhân), giặc Oa là giặc lùn, chỉ hải tặc Nhật Bản.

(2) "Đối thực" chỉ cung nữ, "Thái hộ" chỉ thái giám

(3) Phương giả, hoàng dối. Cụm từ này xuất xứ từ Hồng Lâu Mộng, chỉ mối quan hệ vợ chồng hữu danh vô thực. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.

Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.

Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.

Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.

May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ?

Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.

Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.

Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi:

- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à?

Cao Văn Tâm chua chát đáp:

- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.

Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói:

- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.

Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.

Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa:

- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân!

Dương Lăng nói:

- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.

Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp:

- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.

Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên(4). Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên:

- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?

Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào:

- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.

Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ:

- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt...

Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách:

- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.

Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói:

- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...

Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói:

- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.

Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói:

- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không?

Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp:

- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?

Dương Lăng bật cười nói:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.

Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn:

- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.

Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi kêu người dâng trà tiếp đãi.

Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.

Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa:

- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.

Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói:

- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.

Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."

Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng dậy cáo từ.

Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời:

- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.

Dương Lăng cười đáp:

- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?

- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân(5) thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.

Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.

Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.

Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi:

- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao?

Mẫn Văn Kiến cười khinh thường:

- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.

Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.

Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.

Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc. Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này.”

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt

Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...

Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu, chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?

Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói:

- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.

Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.

Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa:

- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.

Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo:

- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.

Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp:

- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.

Dương Lăng hồ hởi:

- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.

Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt:

- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không?

Dương Lăng ngẩn ra:

- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?

Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!”

Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp:

- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc.

Lão mỉm cười nói tiếp:

- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.

Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng:

- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định.

Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.

Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.

Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.

Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.

"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ,

Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ,

Chích duyên cảm quân nhất hồi cố,

Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.

Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ,

Y đái tiệm khoan bất giác khốc,

Tích thán niên hoa như triều lộ,

Hà thời hàm nên sào quân ốc...

Tam thập lục luân minh nguyệt hậu,

Đương vi quân tác nghê thường vũ..."

Dịch thơ:

Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng

Trăng lặn mù tan đọng sương lan

Cảm lòng chàng một phen ngóng lại

Tim này nhớ ai bao ngày sang

Hồn theo chàng đến cuối chân trời

Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi

Xuân xanh tàn tận dường sương sớm

Khi nao hội ngộ hỡi người ơi

Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua

Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (hsol)

Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:

- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.

Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.

Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà:

- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần(6) của Tô Châu sáng tác ở biệt viện Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?

Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách:

- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy?

Dương Lăng cười nói:

- Việc này không sao!

Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp:

- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.

Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:

- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay:

- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại.

Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.

Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng:

- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng nói:

- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi.

*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)

Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.

Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.

Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:

"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn.

Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."*

được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì.

*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt?

Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...

Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.

Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.

Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.

Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả:

- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!

Mạc Thanh Hà đáp:

- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!

Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.

Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.

Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.

Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. “Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?”

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi:

- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?

Chú thích:

(4) Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.

(5) tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)

(6) Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử.

Bài Đào Hoa am

Đào hoa ổ lý đào hoa am

Đào hoa am lý đào hoa tiên

Đào hoa tiên nhân chủng đào thụ

Hựu trích đào hoa hoán tửu tiền

Tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền tọa

Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên

Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật

Hoa lạc hoa khai niên phục niên

Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian

Bất nguyện cúc cung xa mã tiền

Xa trần mã túc quý giả thú

Tửu trản hoa chi bần giả duyên

Nhược tương phú quý tỉ bần giả

Nhất tại bình địa nhất tại thiên

Nhược tương bần tiện tỉ xa mã

Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn

Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên

Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên

Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ

Vô hoa vô tửu sừ tác điền.

Dịch thơ:

Lũng Ðào Hoa

Lũng Ðào hoa, am hoa một mái,

Trong hoa am tự tại tiên hoa.

Tiên hoa trồng cội đào hoa,

Chiết cành ta lấy đổi ra rượu nồng.

Khi tỉnh rượu ung dung kề cận,

Uống say nằm ngủ khểnh dưới hoa.

Tỉnh say ngày lại ngày qua,

Hoa tươi hoa rụng la đà tháng năm .

Chốn ngựa xe chẳng cần luồn cúi,

Ước nguyền rằng chết với rượu hoa.

Bụi xe dấu ngựa cao xa,

Cành hoa chén rượu cùng ta duyên nghèo.

Đem phú quý so đo đạm bạc,

Một đất bằng một ngất trời xanh.

Ngựa xe đem sánh thanh bần,

Người toan bận rộn, ta phần thong dong.

Người cười ta cuồng ngông khờ khạo,

Ta cười người điên đảo ngược xuôi.

Ngũ lăng phần mộ san rồi,

Không hoa không rượu cũng thời ruộng sâu. (Người dịch: Hạt Cát)


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.