Ngược Về Thời Minh

Chương 109: Q.3 - Chương 109: Chuyện Nhà Của Đế Vương






Trương Thiên sư đến từ Long Hổ sơn, mang theo ba mươi sáu đệ tử.

Một cỗ xe ngựa to lớn dừng bên ngoài cổng cung, Trương Ngạn Thạc leo lên xe, tiểu đạo đồng cũng tót lên theo. Vừa vào trong xe gã liền hạ rèm kiệu, dỡ mũ đạo sỹ ra, một mái tóc đen nhánh mượt mà trút xuống như thác, khuôn mặt anh tuấn lập tức tăng thêm vài phần dịu dàng xinh đẹp.

Vị tiểu đạo đồng này mắt như thu thuỷ, mày tựa tranh vẽ, tóc dài buông xoã, thì ra là một thiếu nữ.

Nàng căng thẳng nhìn anh trai, thấp giọng:

- Ca ca! Gã Dương Lăng đó có vấn đề à nha! Xem tướng mạo y là kẻ bạc phước chết yểu, thế nhưng giờ đây chẳng những hợp với mệnh cách cao sang khôn cùng, thọ phước còn rất cao, há chẳng kỳ quái ư?

Thiên sư Trương Ngạn Thạc cười khan vài tiếng rồi nói:

- Làm gì có chuyện đó? Có thể muội đã tính sai, hoặc cũng có thể là y đã làm được việc thiện nào đó khiến cho vận mệnh thay đổi. Bảo Nhi, chuyện này không nên nhắc đến nữa!

- Ồ?

Bảo Nhi đảo cặp mắt tròn xoe, ánh mắt quái dị mà đắc ý:

- Ý ca ca là đạo thuật mà cha truyền lại có vấn đề à? Thiên sư đạo của chúng ta đã được truyền lại hơn nghìn năm, chẳng lẽ đều là gạt người hay sao?

- Bảo Nhi!

Trương Ngạn Thạc nén giận, quắt mắc rầy em gái:

- Đừng khoe khoang chút đạo thuật đó của muội! Đại đạo thanh hư, thuật pháp tiểu kỹ (ý nói đại đạo rộng lớn khôn cùng, thuật pháp chỉ là tài vặt mà thôi). Thuật pháp của chúng ta chỉ dùng để tìm lành tránh dữ. Bậc minh triết (người thông thái, sáng suốt) hãy còn chưa thể tự bảo vệ mình; cải thiên nghịch vận, nhận biết quốc thế càng là việc xưa nay không thể làm được. Muội nhìn vị Dương tướng quân đó mắt sáng lòng trong, tuyệt không phải là kẻ gian nịnh, vậy là đủ. Nếu thật sự có người nghịch thiên cải mệnh, duyên thọ tăng phúc (1) cho y, loại đạo hạnh đó muội và huynh có thể đối phó được sao? Không lẽ muội còn muốn cầm Đào Mộc kiếm (2) xông vào hoàng cung tróc nã yêu ma ư?

(1) duyên thọ tăng phúc nghĩa là kéo dài tuổi thọ và tăng thêm sự tốt lành.

(2) Kiếm trừ ma quỉ làm bằng gỗ đào. Người Trung quốc tin cành đào có thể trừ được điều bất tường nên đến tết, nhà nhà đều cắm cành đào trước cửa.

Tuổi tuy chưa cao, song tính tình Tiểu thiên sư lại hết sức thận trọng, y nén giọng bảo tiếp:

- Ta vốn là người nhàn tản giang hồ, cần gì chứ? Được vua ban thưởng ư? Họa phước không hình không tướng, tự người tác nghiệt mà ra (3). Chuyện của hoàng gia không cần phải chen vào, cũng không cần nhắc đến, đó không phải là thứ mà chúng ta chạm đến được.

(3) nguyên văn "hoạ phúc vô môn, vi nhân tự triệu" hay "hoạ phúc vô môn duy nhân tự chiêu" trích trong "họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác hữu báo, như ảnh tùy hình" (thiện ác đáo đầu, như bóng với hình)

Vương triều họ Chu trước nay khắc nghiệt vô cảm. Chu Nguyên Chương dựa vào tôn giáo lập nghiệp, rất sợ người khác cũng học theo cho nên lão ta rất kiêng kị hai giáo phái đạo, tăng.

Bất kể là người nào chiếm giữ được giang sơn đều rất là kính trọng Trương Thiên sư của Long Hổ sơn và Khổng thánh nhân của Khúc Phụ (*). Chu Nguyên Chương cũng không dám phá lệ, nhưng lại thi hành quốc sách hạn chế hai nhà Phật, Đạo phát triển thế lực. Do lo ngại thế lực bọn họ phát triển, đến cả quyền phát hành độ diệp (4) của Long Hổ sơn cũng bị đưa về Đạo Lục ty ở kinh thành quản lý. Tiểu thiên sư nào dám huênh hoang?

(*) Khúc Phụ là quê hương của Khổng Tử, nằm ở tỉnh Sơn Đông.

(4) thẻ chứng nhận là tăng lữ do nhà chùa phát hành, hoặc chứng nhận là đạo sĩ do đạo quán phát hành.

Huống chi chuyện quỷ thần thực sự rất mù mờ. Kẻ làm Hoàng Đế luôn luôn mong muốn người khác đều tin vào quỷ thần, như vậy mới có lợi cho y ngồi vững trên ngai vàng. Nhưng y lại không hề muốn có một người thật sự biết phép thuật xuất hiện ngay trước mặt, đó là thứ sức mạnh mà ngay cả vương quyền cũng không thể quản thúc, nên tất nhiên y sẽ nghĩ cách để loại trừ. Lý luận này dòng dõi Trương thiên sư đã sớm nằm lòng, cho nên bọn họ cố hết sức làm ra vẻ cầu phúc cho hoàng gia. Bọn họ không sợ bị Hoàng Đế khám phá việc mình cầu phúc là giả, nhưng lại không dám để cho ông ta phát hiện được chút bản lĩnh thật của mình.

Hơn nữa, tuy bọn họ có thể biết được vận mệnh của một người, nhưng cũng chưa hẳn là đã có thể thao túng được vận mệnh của kẻ đó. Mà vận mệnh quốc gia lại càng có nhiều biến số, quyết không phải là thứ mà đạo thuật có thể trộm biết được thiên cơ. Không ngờ người có tướng mạo quái dị như Dương Lăng lại xuất hiện trong triều đình, ai biết là họa hay là phước? Đương nhiên cứ tránh đi cho lành.

Bọn họ sống trên Long Hổ sơn ở Giang Tây. Mấy năm nay, Ninh Vương ở Giang Tây từng nhiều lần sai người đem ngày sinh tháng đẻ của con lên núi xin Trương thiên sư bói quẻ, tính toán vận mệnh cho con trai mình. Ninh vương là Vương gia thế tập, con y dĩ nhiên cũng là Ninh Vương, còn đoán số làm quái gì? Mặc dù sứ giả của Ninh Vương luôn miệng giải thích là con y từ nhỏ bệnh nhiều, bản thân làm cha vô cùng lo lắng nên phải mời thiên sư bói toán, nhưng dã tâm của y lại không qua mắt được vị tiểu thiên sư này.

Nếu không phải vì Dương Lăng mặt mày chính khí, Trương Ngạn Thạc cũng đã hoài nghi y là thám tử của vị Phiên Vương nào đó sai vào kinh. Tuy y là thiên sư, nhưng cũng không biết đám mây nào sẽ có mưa. Năm xưa Yến Vương Tĩnh Nan không phải đã thành công đó sao (5)? Ai biết bây giờ Dương Lăng thực sự là người của nhà nào! Đối với loại sự việc này, giả vờ ngu ngơ không dính vào là tốt nhất.

(5) tích xưa kể rằng Yến Vương Chu Đệ giả điên, âm thầm chiêu binh mãi mã để đánh lạc hướng Kiến Văn Đế, sau tuyên bố khởi binh, lật ngôi Chu Doãn Văn Kiến Văn Đế.

Có điều y rất yêu thương đứa em gái này. Thấy giọng điệu nghiêm khắc của mình đã gây nên không khí nặng nề, y vội vàng hoà nhã an ủi mấy câu.

Lại nói đến Trương Phù Bảo, tuy là con gái, lại do vợ lẽ của Trương thiên sư sinh ra, thế nhưng địa vị của nàng ở Long Hổ sơn rất là đặc biệt.

Đại thiên sư đời thứ bốn mươi sáu là Trương Vô Cát từng bị người ta tố cáo gây hại ở địa phương, cậy thế ức hiếp chiếm đoạt dân nữ, bị Hoàng Đế đày đi tha hương. Kế thừa chức vị của anh mình, Trương Nguyên Khánh luôn hành sự khiêm tốn, tuân thủ pháp luật, không dám làm bừa, cũng không dám khoe khoang tiên thuật, chỉ thật thà an phận đảm trách chức vị thiên sư.

Nhưng vào năm Hoằng Trị thứ tư, Hoàng Đế sai thái giám đến Long Hổ sơn ban ấn thưởng phù. Vị thái giám nhất thời cao hứng, mượn lời thánh dụ yêu cầu Trương Thiên Sư cầu cho tuyết rơi, hạc bay đầy trời để làm điềm cát tường. Muốn gọi trăm hạc đến lượn quanh, thiên sư tự có biện pháp của mình, nhưng nếu muốn trời đổ tuyết thì thật sự có phần làm khó lão.

Bất chấp khó khăn, Trương thiên sư chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức lễ đàn niệm chú vẽ phù cầu khấn một phen. Cũng không biết là do lão biết khí tượng hay là do may mắn mà quả nhiên hôm đó trời đổ tuyết lớn, thật là nở mày nở mặt.

Đến khi lão trở về Triều Thiên cung, mới hay người vợ lẽ thứ tư là Lưu Thị vừa mới hạ sinh một bé gái. Trương Nguyên Cát cho rằng đứa bé gái này đã mang may mắn cho lão nên hết sức yêu thương đứa con gái do vợ lẽ sinh ra này, đặt tên là Phù Bảo (nghĩa là bảo bối mang đến điềm tốt), thường xuyên dẫn theo bên mình, địa vị khác xa những đứa con vợ lẽ khác. Nàng và người anh trai này chơi thân với nhau từ nhỏ cho đến lớn, vì vậy rất quý mến nhau.

Nhưng lần này Trương Phù Bảo thấy anh trai mình nghiêm mặt mắng nàng không biết điều, chuyện này xưa nay chưa từng xảy ra nên Trương Phù Bảo cũng phát hoảng, không dám nói bậy bạ nữa.

Xe đến trước phủ Thành quốc công, sớm đã có người chạy đi báo tin trước. Trương Ngạn Thạc là cháu ngoại của Thành quốc công, tuy hắn là quốc sư nhưng lại dùng thân phận thân thích đến viếng thăm, không có lý bề trên lại ra nghênh tiếp, nên lão cử hai người anh họ của hắn là Chu Hạ Nghĩa và Chu Hạ Lễ làm đại diện ra đón.

Thành quốc công càng già càng dẻo càng dai nên tuổi tác con cái chênh lệch nhau rất nhiều, người lớn nhất cũng đã sáu mươi còn đứa nhỏ nhất chỉ mới mười bốn. Con gái gả cho Trương thiên sư năm nay mới vừa ba mươi ba.

Hai vị biểu ca nghênh tiếp huynh muội thiên sư vào phủ, vừa đi vòng qua bức bình phong đã thấy một người đàn ông mặt mày đỏ au nồng nặc mùi rượu, được người dìu thất tha thất thểu bước ra, suýt nữa đâm sầm vào người Trương Ngạn Thạc.

Chu Hạ Nghĩa chau mày, hỏi người đàn ông trạc ba mươi đang dìu gã say đó:

- Lục ca! Tiết huynh lại uống say nữa à?

Vị Lục ca "À" một tiếng rồi cười nói:

- Lúc nào y về mà chẳng say? Không cần lo đâu, ta sẽ đưa y về.

Nhìn thấy huynh muội Trương Ngạn Thạc bận đạo bào, biết là biểu đệ và biểu muội vừa tới, y bèn tươi cười:

- Huynh đưa vị bằng hữu này về phủ, biểu đệ biểu muội hãy lên chính sảnh, gia gia đang chờ gặp hai người đó.

Trương Ngạn Thạc chắp tay mỉm cười, đưa mắt tiễn hai người bọn họ. Trương Phù Bảo đưa tay vào chậu hoa cạnh bờ tường ngắt một đoá hoa to bằng cái chén lên ngửi, rồi hỏi:

- Biểu ca! Ông ngoại là võ tướng nên những người mà các huynh kết giao cũng đều thật là hào sảng đó. Mỗi lần bạn bè các người đến phủ đều uống đến say bí tỉ như vậy sao?

Chu Hạ Lễ bật cười đáp:

- Tiết huynh không phải là võ tướng, mà là tiến sỹ Đầu Giáp (6) năm Hoằng Trị thứ sáu, là một đại tài tử.

(6) Đầu giáp là đệ nhất giáp. Tiến sỹ sau khi thi Đình chia ra làm ba loại là Đệ Nhất Giáp, Nhị Giáp và Tam Giáp. Đệ Nhất Giáp chỉ có ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, được gọi là "Tam khôi".

Chu Hạ Lễ vừa nói vừa lắc đầu một cách bất đắc dĩ, đoạn thở dài nói:

- Chỉ là từ dạo cưới Ninh Thanh công chúa, làm Đô uý phò mã, than ôi... Thôi không nhắc đến chuyện này nữa! Vào thôi!

Huynh muội Trương Ngạn Thạc kinh ngạc nhìn nhau, rồi nối gót bọn họ vào trong.

* * *

Dương Lăng vào đến Đông Noãn các. Cốc Đại Dụng tinh mắt, vừa thấy y đến vội vàng cười hềnh hệch ra đón:

- Dương đại nhân đến rồi! Hoàng Thượng đang chờ đại nhân đó, nhanh lên nhanh lên!

Cái chủ ý để Dương Lăng tham dự Kinh Diên là do lão đưa ra. Quả nhiên hôm nay Dương Lăng đã làm cho một đám quan văn rúng động, khiến Hoàng Thượng Chính Đức khoái chí mặt mày tươi rói, đương nhiên lão cũng hết sức phấn khởi, mình cũng được thơm lây vậy.

Chính Đức vừa thấy Dương Lăng, khuôn mặt anh tuấn liền đỏ bừng hào hứng. Y hồ hởi:

- Dương thị độc! Đến đây, đến đây, ban cho ngồi. Ha ha ha, hôm nay trẫm thực là vui, thấy mấy lão già ngày thường như một đám ruồi nhặng bâu trước mặt trẫm nay lại không nói được một câu nào, thực sự khiến trẫm mắc cười gần chết. Lần này trẫm muốn thăng quan cho khanh, ta xem còn ai dám phản đối.

Dương Lăng mỉm cười làm lễ với Hoàng Thượng rồi đáp:

- Nhờ hồng phúc của Hoàng Thượng, vi thần cũng chỉ là may mắn vượt ải mà thôi. Hoàng thượng yêu mến vi thần, vi thần ghi khắc trong lòng. Nhưng thần trẻ tuổi, kiến thức hạn hẹp, nếu cứ thăng bừa làm công khanh ở Lục Bộ, quả thực sẽ như trò đùa. Chỉ dựa vào một hội Kinh Diên thôi, các đại thần sẽ không chịu phục. Cho dù là thần tiếp nhận đi chăng nữa, cũng không dám khẳng định mình cáng đáng nổi trách nhiệm này.

Y vừa nói xong, chẳng những Chính Đức mà cả Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn, ba người hầu bên cạnh Chính Đức cũng sững người. Lưu Cẩn dẫu gì cũng đọc qua dăm ba quyển sách, vội vàng lên tiếng khuyên nhủ:

- Cam La mười hai tuổi đã được bái làm Thượng khanh, sao Dương đại nhân không thể làm thượng thư bộ Hình chứ? Có đương kim hoàng thượng hộ giá cho đại nhân, chỉ mấy quan văn phản đối thì có gì mà phải sợ?

Cày cuốc ôn luyện cả đêm, thực sự Dương Lăng đã thu được không ít tiến bộ về tri thức lịch sử này, biết câu chuyện về "Cam La bái tướng" (7). Y thầm nhủ: "Cam La mười hai tuổi được bái Thượng khanh à? Y mười hai tuổi bị chém đầu thì có. Ông đưa ví dụ này ra khiến ta không thoải mái tí nào."

(7): Cam La bái tướng: Tích thời Đông Châu Liệt Quốc (xem Đông Châu Liệt Quốc, chương 104). Cam La 12 tuổi đã được phong thượng khanh (thời đó, chức thượng khanh gần bằng Thừa Tướng nên mới có câu “Cam La (được) bái tướng”), sau đó không bệnh mà mất sớm.

Nhưng lại có thuyết Cam La bị giết trong một vụ biến loạn cung đình.

Đối với việc được tùy tiện tấn phong làm Thượng khanh, Dương Lăng vẫn lo lắng do dự. Hôm nay thấy rõ thái độ của văn võ bá quan trên triều, y càng kiên quyết giữ vững ý mình.

Nếu chỉ luận thanh danh, Dương Lăng giờ đây thật như mặt trời đứng bóng. Hơn nữa trong đại nội có Hoàng Thượng, ngoài cung có Cẩm y vệ làm hậu thuẫn, giờ lại chiếm được sự tin cậy của một đám võ tướng, Dương Lăng cho rằng dù bản thân có chết đi, được những mối quan hệ giao tiếp này chiếu cố, có bổng lộc của Uy vũ bá, cũng đủ để Ấu Nương... và hai người Tuyết Nhi, Ngọc Nhi mà y phụng dụ cưới về không phải lo lắng cái ăn cái mặc nữa.

Nhưng nếu như thật sự làm thượng thư, y liền sẽ bị cuốn vào giữa vòng tranh chấp quyền lực cùng đám quan văn. Qua một năm, quan hệ cũng vừa thiết lập xong thì mình cũng ra đi rồi, Ấu Nương sẽ làm sao đây? Người cầm bút không phải đều là hạng thiện lương, nếu khi đó lại có kẻ đến đâm bị thóc chọc bị gạo, thánh quyến (*) có còn được như xưa không?

(*) được vua yêu quý thì gọi là thánh quyến

Mang nỗi lo canh cánh trong lòng, Dương Lăng đã quyết định bất kể Kinh Diên hôm nay biện luận hay dở ra sao, y phải kiên quyết từ chối không nhận chức vụ thượng thư bộ Hình.

Từ khi tân hoàng đăng cơ, tiếng tăm và quyền lợi của đám người Lưu Cẩn đều đã cao hơn lúc trước rất nhiều. Mấy tên vốn không có chí lớn này cũng đã rất là thoả mãn. Có điều chặn ngang trên đầu bọn họ là một lão già Vương Nhạc. Thấy bọn họ bầy trò mua vui khiến cho Hoàng Thượng hư hỏng, thỉnh thoảng lão lại đi mắng bọn họ một trận, thành ra bọn họ rất khó chịu.

Cả bọn thầm tính nếu như được một người ngoài cung có quan hệ mật thiết với bọn họ như Dương Lăng làm Thượng khanh, giữ chức thượng thư, cuộc sống của bọn họ cũng có thể dễ thở hơn. Cho nên vừa nghe Dương Lăng không muốn làm quan thì cả bọn lập tức nhao nhao lên khuyên bảo không ngừng; thật khớp với câu ngạn ngữ "Hoàng Đế còn chưa vội, thái giám đã quýnh lên".

Không thể nói rõ những tính toán của mình, Dương Lăng đành phải làm ra vẻ thành thật tâu với Chính Đức:

- Hoàng Thượng! Người vừa lên ngôi báu, lúc này nên nghĩ cách giành lấy sự ủng hộ của bá quan mới phải. Trước đây Hoàng Thượng vì vi thần mà đã giáng chức ba vị thượng thư. Chỗ tốt là nhờ thế Hoàng Thượng đã lập uy, chỗ xấu là Hoàng Thượng vừa mới lên ngôi chí tôn, liền đã giáng chức đại thần, khó tránh bá quan không phục. Giờ đây nếu lại phá lệ đề bạt vi thần, các đại thần sẽ nghĩ sao? Không chừng bọn họ sẽ lo rằng Hoàng Thượng muốn đổi hết toàn bộ cựu thần, như vậy sẽ bất lợi cho triều chính đó.

Chính Đức nghe Dương Lăng nói hợp tình hợp lý như vậy, trong lòng vô cùng cảm động: "Phụ hoàng quả nhiên mắt sáng như sao (nv: tuệ nhãn như cự), Dương thị độc này không hề có chút dã tâm. Mang đến cho y chức quan lớn như vậy mà y cũng không đoái hoài, chỉ một lòng một dạ lo nghĩ cho trẫm."

Tâm tính trẻ con là vậy, ai đối xử tốt với nó, đương nhiên nó sẽ nóng lòng muốn trao hết tất cả lợi ích cho người ta. Dương Lăng vừa nói xong, hắn càng cảm thấy nếu không phong cho y chức quan thật to thì sẽ không khỏi có lỗi với trung thần của mình. Nhưng Dương Lăng nói cũng rất có lý, vậy trao cho y chức quan nào mới thích hợp đây?

Đang lúc Chính Đức nhíu mày suy nghĩ cân nhắc, một tiểu cô nương xinh đẹp mặc váy xanh đã nổi giận đùng đùng xông vào, không thèm liếc xem người đứng ở bên là ai, nàng chỉ sấn sổ nói với Chính Đức:

- Hoàng huynh! Ai đời Công chúa Ninh Thanh bị một tên gia nô ức hiếp phải khóc lóc không ngừng, thực đâu lại có chuyện như vậy được!?! Hoàng huynh không thể bàng quan với cái kết cục đáng xấu hổ này được!

Vừa nhìn thấy người con gái váy xanh lỗ mãng xông vào chính là công chúa Vĩnh Thuần, Dương Lăng vội vàng bước lên làm lễ, mấy người Lưu Cẩn cũng thi nhau quỳ xuống. Khuôn mặt xinh xắn đang đỏ bừng vì giận, công chúa Vĩnh Thuần cũng không thèm để ý đến bọn họ, cặp mắt tròn xoe đầy uất ức nhìn chằm chằm vào Chính Đức không rời.

Chính Đức rất yêu mến người ngự muội tinh nghịch hoạt bát này. Thấy nàng giận đến thở hổn hển thì hắn vội vàng đứng dậy cười ha hả, nói:

- Công chúa Ninh Thanh à? Đã xảy ra chuyện gì vậy? Xem muội giận kìa! Lại đây, hoàng huynh mới có mức táo Kim ti của Thương Châu vừa dâng tới, muội lại nếm thử đi! Có gì thì từ từ hãy nói.

Bản thân Hoàng Đế Chính Đức không có điểm nào ra dáng hoàng đế, tiểu công chúa Vĩnh Thuần cũng không giác ngộ mấy về thái độ của thần tử đối với người hoàng huynh vừa mới đăng cơ này. Nàng dẩu cái miệng xinh xắn, hầm hầm bước qua ngồi lên chỗ cao hơn vị trí của Chính Đức (*), rồi vỗ bàn nói:

- Ninh Thanh cô cô từ nhỏ đã rất yêu thương chúng ta, bây giờ hoàng huynh đã làm tới Hoàng Đế, phải đỡ lưng cho người.

(*) Theo lễ nghi, người có vai vế thấp hơn phải ngồi ở phía dưới.

Hôm nay Tiết phò mã vào cung thăm hoàng cô, không ngờ bị nữ quan phủ công chúa đuổi đi, khiến cho cô cô giận đến trào nước mắt. Nhưng khi người tìm đến Thái hoàng thái hậu kể khổ, Thái hoàng thái hậu lại mắng người không biết giữ lễ. Muội thật tức quá đi.

Kể xong, Công chúa Vĩnh Thuần nhón lấy một miếng mứt táo ở trong hộp cho vào miệng tức tối nhai.

Mã Vĩnh Thành nay đã làm tổng quản đại nội, nghe công chúa Vĩnh Thuần kể lại như vậy xong, sắc mặt lão không khỏi có chút hoảng sợ. Lão liền đảo mắt, ghé bên tai Chính Đức nói nhỏ mấy câu.

Chính Đức nghe xong bèn góp ý với công chúa Vĩnh Thuần:

- Ờ... Hoá ra chuyện là như vậy! Trong cung có quy củ của trong cung, cho dù là phò mã cũng không thể phá bỏ quy củ được, nếu không sao Thái hoàng thái hậu lại có thể trách mắng hoàng cô chứ? Đúng là chuyện bé xé ra to.

Công chúa Vĩnh Thuần đứng phắt dậy, chỉ tay vào Chính Đức, giọng run rẩy:

- Huynh... huynh...

một hồi, rồi trào nước mắt không nói thành lời.

Mã Vĩnh Thành ở bên cạnh đằng hắng một tiếng, giọng âm hiểm:

- Điện hạ! Hoàng Thượng là hoàng huynh của người, cũng là quân thượng của người, mong người hãy để ý đến lễ nghi của thần tử.

Công chúa Vĩnh Thuần chợt chụp hộp mứt ném úp về phía Mã Vĩnh Thành, giậm chiếc hài cong giận dữ la lên:

- Được, được lắm! Huynh là Hoàng Thượng, huynh giết ta đi!

Nói rồi nàng nâng váy định lao ra ngoài.

Thấy Mã Vĩnh Thành mặt mũi dính đầy mứt hoa quả, trên đầu còn đội mấy miếng mứt, cặp lông mày và đôi ngươi Chính Đức đảo tới đảo lui, cố nén không cười thành tiếng. Hắn thấy tiểu hoàng muội giận đến run người, vội hoà giải:

- Được rồi, được rồi! Để hoàng huynh giúp muội, được chưa?

Ngoái đầu nhìn thấy Dương Lăng, hắn không khỏi mừng rỡ gọi:

- Dương thị độc! Khanh cùng đi với hoàng muội một chuyến, xem thử đã xảy ra chuyện gì. Chỉ cần làm cho hoàng muội vui vẻ là được, để nàng ấy khỏi phải ném đồ của trẫm nữa.

Dương Lăng giật mình, vội đáp:

- Vi thần là ngoại thần, đây hình như là tránh nhiệm của phủ Nội Vụ mà?

Chính Đức bực mình phán:

- Không sao đâu, không sao đâu! Dù sao trẫm cũng đã bẩm với Thái hoàng thái hậu rồi. Đại hôn của trẫm sẽ do bộ Lễ và phủ Nội Vụ cùng tổ chức, việc tuyển dụng nhân sự này sẽ do Hồng Lư Quan, Ôn Tắc An của bộ Lễ và khanh đảm nhiệm. Bây giờ khanh sẽ phải thường xuyên ra vào đại nội hoàng cung đó.

Nói đến đây như chợt nhớ ra điều gì, Chính Đức bèn tháo chiếc ngọc bội hình rồng giắt ở bên hông xuống đưa cho y, rồi bảo tiếp:

- Nội cung không như ngoại cung, thẻ bài bình thường không thể vào được. Trước tiên khanh hãy mang miếng ngọc bội này của trẫm đã.

Công chúa Vĩnh Thuần vẫn chưa khô nước mắt, bờ mi mượt mà, cặp mắt to tròn trong veo chớp chớp nhìn Dương Lăng một hồi, rồi chợt kêu lên:

- Ta nhận ra ngươi rồi! Sao ngươi lại mặc khôi giáp vào cung Càn Thanh vậy?

Tiểu công chúa Vĩnh Thuần chỉ cao tới ngang ngực Dương Lăng. Cũng không biết là vì tuổi còn nhỏ chưa hiểu cái gì là nam nữ cách biệt hay là vì bị người cha tốt bụng đó của nàng chiều hư, không ngờ nàng đến sát trước mặt Dương Lăng rờ rờ mảnh giáp trên ngực y một hồi, rồi tặc lưỡi khen:

- Nhìn không ra, thật là rắn chắc, chịu hai mươi gậy nhất định sẽ không sao. (B_V: Chà, hai mươi gậy không sao, còn ba mươi gậy??!)

Tiểu cô nương vừa đến sát bên, hương thơm mê người liền ùa tới, Dương Lăng không khỏi lúng túng lui lại một bước. Cốc Đại Dụng há hốc miệng ra, vừa tính nhắc nhở "Vĩnh Thuần điện hạ hãy chú ý đến khuôn phép của công chúa", nhưng nhìn thấy miếng mứt khô trên đầu Mã Vĩnh Thành, còn vị Hoàng Đế ca ca nóng tính của nàng cứ như là một kẻ bàng quan, vẫn bình chân như vại không hề phản đối, lão bèn thức thời không lên tiếng nữa.

Lần trước Dương Lăng bị chính cô nhóc này ép chui ra làm con dê thế tội cho công chúa Vĩnh Phúc, bị Hoàng Đế Hoằng Trị nổi trận lôi đình kéo ra ngọ môn đánh cho ba mươi gậy. Nay hoàng đế "già" đã đổi thành hoàng đế "trẻ", vị tiểu công chúa này lại càng không kiêng nể ai; nhìn thấy cô nhóc ranh này, thật sự y cảm thấy hơi sợ.

Công chúa Vĩnh Thuần duỗi tay ấn lên ngực y một cái, hài lòng:

- Tốt lắm! Ngươi hãy mặc bộ đồ liền thân này, cùng bổn công chúa đến phủ Thập vương dạy dỗ cái đám gia nô càn quấy đó.

Chính Đức đưa cây quạt tròn lên che miệng, ho khan hai tiếng, nháy mắt với Dương Lăng, ra hiệu y mau đưa tiểu sát tinh này đi, song khoé miệng lại ậm ờ nói:

- Sự việc quan hệ đến thể diện hoàng gia, đi xem thử chuyện gì đã xảy ra, mọi việc đã có trẫm làm chủ.

Rốt cuộc ở phủ của vị công chúa Ninh Thanh này đã xảy ra chuyện gì thế?

Thì ra sau khi lấy chồng, công chúa triều Minh không được ở cùng một chỗ với chồng mà phải dời vào phủ Thập vương ở trong cung, một mình một điện. Hoàng Đế chỉ phái một nữ quan trong cung phụ trách ăn uống ngủ nghỉ cho công chúa, cho dù công chúa muốn gặp phò mã cũng phải được sự đồng ý của vị nữ quan này, bằng không đừng hòng phò mã bước qua được cửa cung.

Vì viên nữ quan này do Hoàng Đế sai phái, đồng nghĩa với việc phụng chỉ khâm sai, nên cho dù là công chúa cũng không dám đắc tội với ả, lại càng không tiện đi nói với Hoàng Đế là mình muốn gặp trượng phu. Cho nên khi chưa kết hôn thì công chúa là một cánh phượng hoàng, nhưng một khi đã cưới phò mã rồi thì lại phải chịu rất nhiều uất ức. Để phu thê có thể gặp nhau được một lần, rất nhiều công chúa phò mã phải bỏ ra rất nhiều vàng ròng bạc nén hối lộ nữ quan, thành thử nữ quan càng lúc càng kiêu ngạo.

Vào thời Minh, bất luận anh có học vấn cỡ nào, một khi cưới công chúa trở thành phò mã, anh sẽ phải chấp nhận từ bỏ mọi chức quan mà sống một mình tại phủ phò mã. Một số còn có thể được nhận làm công việc lặt vặt ở phủ Tông Nhân (8), nhưng đại đa số lại chỉ có thể lĩnh bổng lộc mà không được chức quan nào. Thực là sống như kẻ goá vợ: đã không được nạp thiếp lại không dám ra vào chốn lầu xanh (không phải lauxanh.us a hèm).

(8) phủ Tông Nhân (Tông Nhân phủ) là tên một phủ trong cung đình, chuyên quản lý gia phả dòng họ hoàng thất.

Hơn nữa, một khi công chúa qua đời, hoàng gia sẽ thu hồi toàn bộ tài sản và phủ đệ đã ban tặng. Quyền thế của những vị phò mã này thậm chí không bằng của một tên quan nhỏ, mà phần lớn những nữ quan đó lại thường xuyên biếu tặng tiền tài cho những đại thái giám có quyền trong cung, được người chống lưng, thế nên phò mã cũng không làm gì được bọn họ.

Mã Vĩnh Thành đã nhận tiền đút lót của nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh. Lão biết nữ quan này chê tiền đút lót của vợ chồng công chúa ít nên cố ý làm khó việc phu thê người ta gặp nhau, vì vậy vừa nghe công chúa Vĩnh Thuần muốn tìm nữ quan đó kiếm chuyện, lão liền nói nhỏ với Chính Đức mấy câu. Lão bảo Tiết phò mã thường xuyên chưa được phép đã tự tiện ra vào hoàng cung, làm tổn hại đến thể diện hoàng gia, rằng nữ quan nọ chỉ làm theo luật lệ, khuyên Hoàng Đế không cần xen vào chuyện giữa những người phụ nữ trong cung này.

Vĩnh Thuần tính tình tinh quái, sao lại không hiểu ý tứ trong lời hoàng huynh. Nàng chun mũi, cũng chẳng phản bác, vừa thầm nghĩ cách vừa hừ nhạt một tiếng, nói:

- Đi thôi! Theo bổn công chúa đến phủ Thập vương.

Dương Lăng không thể thoái thác, đành phải đi theo nàng xử lý chuyện nhà hoàng đế. Công chúa Vĩnh Thuần bước ra khỏi cung Càn Thanh, uyển chuyển men theo hành lang uốn khúc đến một nơi vắng vẻ. Nàng đưa mắt khẽ liếc chung quanh rồi chợt dừng chân, xoay người lại, nhìn Dương Lăng mỉm cười, hỏi:

- Bổn công chúa nghe nói... mấy ngày trước suýt nữa thì ngươi đã bị hoàng huynh chém đầu hả?

Nhìn thấy vẻ mặt của cô nàng, Dương Lăng không nhịn được phải cẩn thận lui lại một bước, thận trọng đáp:

- Dạ, vi thần bị người hãm hại, nhất thời không cách nào biện bạch. May mà Hoàng Thượng thánh minh, vi thần mới có thể thoát ngục.

Công chúa Vĩnh Thuần chắp tay sau lưng, gật gù ra vẻ bà cụ non:

- Ừ, tự cổ có câu ”làm bạn với vua như đùa với hổ”, Dương đại nhân giờ chắc hẳn đã có thể lĩnh hội sâu sắc rồi nhỉ?!

Dương Lăng cảm thấy vẻ mặt của vị công chúa Vĩnh Thuần này hơi hơi kỳ quái, trong lòng lờ mờ cảm nhận mối nguy. Loại con gái được nuông chiều từ bé này vốn không dễ hầu hạ, mà cô nhóc này lại là công chúa. Dương Lăng thật sự nhức đầu khi giao tiếp với loại con gái như vầy.

Công chúa Vĩnh Thuần đảo tròn đôi mắt, đoạn chậm rãi nheo mắt lại, trên khuôn mặt ngây thơ hiện rõ chữ "ta muốn hãm hại ngươi", ranh mãnh hỏi:

- Bị người ta hãm hại đáng sợ lắm phải không? Mùi vị bị lôi ra đầu chợ có dễ chịu không?

Vĩnh Thuần cười gian xảo nói tiếp:

- Ngươi nghĩ rằng ta không hiểu được ý tứ vừa rồi của hoàng huynh ư? Ta nói cho Dương đại nhân hay, nếu như ngươi không giúp cô cô ta trút giận, ta không cần đưa ngươi ra đầu chợ, bổn công chúa sẽ trực tiếp gọi Cẩm y vệ bắt ngươi chém đầu tại chỗ!

Dương Lăng cười gượng gạo đáp:

- Công chúa điện hạ! Dù thế nào cũng phải để vi thần biết rõ nguyên nhân hậu quả mới đưa ra quyết định chứ? Vi thần chết không đáng tiếc, nhưng lạm sát đại thần, thật sẽ gây trở ngại đến tiếng thơm của công chúa đó.

Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng Dương Lăng không khỏi thầm kêu khổ: "Thật đúng là anh em ruột cùng cha cùng mẹ mà. Anh của cô nàng xách bảo kiếm đuổi giết Thọ Ninh hầu khắp cung, bây giờ vị tiểu công chúa này lại muốn truy sát Dương tham tướng mình hay sao?"

Công chúa Vĩnh Thuần chợt cười "phì" một tiếng như hoa xuân nở rộ. Tuy cô nàng tuổi còn nhỏ, nhưng lúc này đắc ý cười, trông lại hết sức tao nhã, cử chỉ cũng cực kỳ đáng yêu. Cô nàng cười mím chi hỏi lại:

- Trở ngại cái gì mà trở ngại? Nếu như ta bảo ngươi gan lớn trùm trời, vô lễ với bổn công chúa, ngươi nghĩ xem có đủ tội chém đầu không?

Dương Lăng vừa nghe liền giận tím mặt. Đột nhiên thấy Dương Lăng quắc mắt, khí thế giận dữ bộc phát ngút trời, cô nàng tiểu công chúa sợ hãi phải lui lại một bước. Nàng biết Dương Lăng quan hệ thân thiết với những nội quan nọ, e rằng y sẽ hành động theo tư tâm nên mới giả bộ doạ nạt y. Nào biết vừa nói lời này, Dương Lăng đã xem cô nàng như mỹ nhân độc địa coi mạng người như cỏ rác.

Cố dằn cơn giận, Dương Lăng khép hờ mắt, điềm nhiên đáp:

- Công chúa điện hạ là lá ngọc cành vàng, con rồng cháu phượng. Vi thần đã là gì chứ? Hoàng thượng đã phái thần đi làm chuyện này, vi thần đương nhiên sẽ xử lý công bằng. Nếu như lẽ phải không nằm bên phía điện hạ, chỉ mong công chúa điện hạ có thể lượng thứ cho vi thần.

Công chúa Vĩnh Thuần thấy Dương Lăng điềm nhiên như vậy, không khỏi có phần ngượng nghịu, nói:

- Ta... ta cũng không phải là kẻ không biết lý lẽ, đương nhiên là ta có lý nên mới yêu cầu ngươi giúp ta trút giận...

Nàng thấy Dương Lăng tuy cung kính hành lễ đứng nghiêm, nhưng cặp mắt lại nhìn thẳng xuống chân, không thèm liếc nàng lấy một cái, thế là cũng không kiềm được cơn giận của thiếu nữ, thầm nghĩ: “Ta đường đường là một công chúa Đại Minh, dựa vào cái gì mà phải xuống giọng khép nép giải thích với ngươi như vậy chứ?”

Nàng phất tay áo, nghiêm mặt nói:

- Hãy nhớ lấy lời ngươi nói: xử lý công bằng! Bằng không, ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu, hừ!

Nói đoạn nàng xoay người, đùng đùng bỏ đi.

* * *

Trong cung Càn Thanh, thái giám Ti Lễ phụ trách công trình Thái lăng là Đới Nghĩa vừa mới long đong mệt mỏi chạy về.

Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng địa vị thấp kém, ở trước mặt lão vốn chỉ có thể vâng vâng dạ dạ. Nhưng từ khi nảy sinh hiềm khích với Vương Nhạc, Đới Nghĩa cũng biết, luận quan hệ hay địa vị lão đều không bì được với Vương Nhạc, trong khi đám người Lưu Cẩn tuy hiện giờ có thế lực mà không có thực quyền, nhưng lại là những thái giám đang được đương kim hoàng thượng vô cùng tin tưởng và thương yêu, do đó lão nảy tâm muốn kết nạp bọn họ. Cho nên lúc gặp mặt, lão cũng tỏ ra vui vẻ hoà nhã, thực khác xa với vẻ coi rẻ trước kia, khiến bọn người Lưu Cẩn vui sướng không thôi.

Chính Đức trông thấy Đới Nghĩa liền bảo:

- Đới Nghĩa! Trẫm có một chuyện muốn trao đổi với khanh cho nên mới vội gọi khanh về gấp.

Đới Nghĩa vừa mừng vừa lo, vội tâu:

- Hoàng Thượng có chuyện gì chỉ việc phân phó, nô tài nào dám không nhận lời?

Chính Đức trầm ngâm rồi hỏi:

- Chi phí cho công trình Thái lăng thế nào rồi? Có còn thiếu bạc không?

Từ khi vụ án Đế Lăng thấm nước kết thúc, dù sao thì sổ sách chi tiêu ở Thái Lăng đã ít nhiều được triều thần chú ý hơn. Hiện giờ, Đới Nghĩa không dám vơ vét nhiều bạc trong đó nữa mà thật sự dốc rất nhiều công sức, coi nó như công trình điểm cho sự nghiệp của chính mình, cho nên số bạc triều đình phân bổ dành cho việc chi tiêu công trình khá là dư dả. Nghe Chính Đức hỏi, Đới Nghĩa vội đáp:

- Hồi bẩm Hoàng Thượng! Chi phí của công trình Thái lăng đã đủ dùng rồi.

Chính Đức gật đầu nói:

- Ừm, vậy là tốt rồi! Đã sắp đến đại hôn của trẫm, số bạc cần cho đại hôn và tặng thưởng là một trăm tám mươi vạn lượng. Trẫm yêu cầu bộ Hộ xuất kho, Hàn Văn lại muốn trẫm lấy trong nội khố (kho nội cung) để chi trả. Nhưng Mã Vĩnh Thành nắm giữ nội khố, sau khi kiểm tra qua, lão cho biết bây giờ trong kho cũng không dư dả, nhiều nhất chỉ có thể lấy một trăm vạn lượng, tám mươi vạn lượng còn lại thì không cách nào thu xếp được. Trẫm hỏi thêm tám mươi vạn lượng nữa, cuối cùng bộ Hộ đã phải chấp thuận, nhưng Hàn Văn chỉ chịu cấp cho trẫm ba mươi vạn lượng, số còn lại y muốn trẫm dùng bạc giấy (nguyên văn: ngân sao) để ban thưởng thay cho ngân lượng. Hừ! Trẫm nhất thời hồ đồ suýt nữa thì đã nhận lời, may nhờ Lưu Cẩn nhắc nhở, trẫm mới vỡ lẽ ra. Lễ đăng cơ và đại hôn của trẫm cùng cử hành trong một năm, đó là song hỷ lâm môn, muốn trẫm phân phát bạc giấy cho bầy tôi và tướng sỹ canh giữ biên cương, đây không phải là làm xấu mặt trẫm à? Vì vậy...

Chính Đức nhìn Đới Nghĩa, trong lòng hơi lưỡng lự: "Ta bảo Đới Nghĩa giả vờ báo số bạc dành cho công trình Thái Lăng không đủ để đòi bạc với triều đình, làm như vậy có phải là quá bất kính với Phụ Hoàng hay không?"

Đới Nghĩa thấy vẻ mặt Chính Đức do dự, lại tưởng rằng Hoàng Thượng muốn "vắt" bạc từ công trình Thái Lăng ra. Lúc này lão đang rất muốn lấy lòng Chính Đức nên bèn tính toán nhanh trong bụng: nếu kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, không cho phép bất kỳ đốc công nào vơ vét bòn rút, lúc mua sắm vật liệu cũng dè sẻn lại một ít, thì hẳn sẽ có thể cố gắng tích góp được bốn năm chục vạn lượng bạc.

Tính toán xong, Đới Nghĩa vội quỳ xuống tâu:

- Hoàng Thượng yên tâm! Vốn công trình Thái Lăng được dự toán là ba trăm tám mươi vạn lượng bạc. Nô tài và mấy vị đại nhân làm việc cho Hoàng Thượng không dám lười biếng sơ suất, tiến độ công trình cũng rất mau, phỏng đoán ba trăm ba mươi vạn lượng đã đủ để chi dùng. Vậy năm mươi vạn lượng còn thiếu đó, Hoàng Thượng hãy lấy từ Thái Lăng ra chi dùng đi.

Chính Đức nghe vậy cả mừng, không nhịn được đứng bật dậy hỏi:

- Gì hả? Công trình Thái Lăng có thể nhín ra năm mươi vạn lượng à?

Y thoáng trầm tư, rồi tái mặt nghi hoặc hỏi:

- Không lẽ ngươi vì lấy lòng trẫm, muốn ăn bớt ăn xén lăng tẩm tiên vương hay sao?

Đới Nghĩa vừa nghe vội bẩm ngay:

- Hoàng Thượng, nô tài nào dám làm vậy chứ! Thật sự là khi đưa ra khái toán, áng chừng nguyên liệu đã có dư. Bây giờ công trình đã hoàn thành được một nửa, nô tài đã tính kỹ qua: chỉ nội cung lăng (cung của lăng tẩm) trên mặt đất xây xong thôi hẳn đã có thể tiết kiệm được mười mấy vạn lượng bạc. Nô tài không dám giấu giếm, vốn đã muốn bẩm báo với Hoàng Thượng, vừa may Hoàng Thượng cần dùng bạc, nô tài nào dám không vì Hoàng Thượng mà lo nghĩ chứ?

Lúc này Chính Đức mới chuyển giận thành mừng, nói:

- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Chỉ cần không tổn hại gì đến lăng tẩm của phụ hoàng là được. Trẫm vì chuyện này mà đã ưu sầu lâu nay rồi. Vương Nhạc nắm giữ cung điện to như vậy mà trẫm hỏi ý kiến của lão ta, lão lại chẳng có biện pháp gì, không ngờ khanh lại có bản lĩnh giúp trẫm tháo gỡ lo âu.

"Vương Nhạc?" Đới Nghĩa là một kẻ "có thù tất báo". Vốn lão một lòng trung thành với Vương Nhạc, nhưng khi lão nằm ngục chờ chết thì Vương Nhạc lại khoanh tay đứng nhìn nên bây giờ Đới Nghĩa hận Vương Nhạc đến thấu xương. Lão đưa mắt nhìn quanh, thấy trước mặt chỉ có ba người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành, đều là những thái giám mà Vương Nhạc không sao ưa thích. Đới Nghĩa bèn lấy dũng khí cười nịnh tâu:

- Đương nhiên rồi! Cho dù có biện pháp, e rằng Vương công công cũng sẽ không nỡ đưa ra đâu.

- Hử?

Vừa hiểu ẩn ý trong lời, Chính Đức không khỏi ngờ vực liếc mắt nhìn lão, hỏi:

- Nói rõ ra đi! Ngươi hãy thành thật nói cho trẫm biết!

Đới Nghĩa lật đật dập đầu bẩm:

- Nô tài không dám, nô tài không dám! Vương công công nắm quyền Đông xưởng, Tây xưởng. Nô tài mà nói một câu khiến cho ông ấy không vui, ông ta muốn nô tài chết thì lập tức sẽ nghiền nát nô tài như một con kiến, nô tài thực không dám nói.

Chính Đức vừa nghe liền phẫn nộ, đập bàn "bốp" một cái, giận dữ quát:

- Chẳng lẽ Vương Nhạc còn lợi hại hơn cả trẫm ư? Ngươi sợ Vương Nhạc thì không dám nói thẳng với trẫm sao?

Hiểu ẩn ý trong lời nói của Đới Nghĩa, Lưu Cẩn bèn cười nham hiểm:

- Đới công công! Ở đây trừ Hoàng Thượng ra chính là ba nô tài bọn ta, đều một lòng trung với Hoàng Thượng, có chuyện gì cứ việc nói với Hoàng Thượng đi! Bất kể đúng hay không, Hoàng Thượng biết là được rồi. Trừ mấy người chúng ta trong điện ra, tuyệt đối sẽ không để người ngoài biết được.

Đới Nghĩa mừng thầm trong bụng, vội tâu:

- Đúng rồi! Phải phải! Nô tài đã hồ đồ rồi! Nô tài không dám nói, không phải là vì không sợ Hoàng Thượng mà thực ra là lời nói vu vơ, không chứng không cứ, sợ sẽ khiến cho Hoàng Thượng phiền lòng không đáng.

Lão vừa tâu vừa thấp thỏm ngẩng đầu lên:

- Hoàng Thượng! Đông xưởng giám sát bá quan và Cẩm y vệ, quyền lực ngút trời, bình thường chỉ riêng số bạc biếu tặng đã nhiều không biết bao nhiêu. Còn như Tây xưởng, giám sát Đông xưởng ấy, lợi ích càng thêm ngất ngưỡng, tiện tay bóp ra một chút cũng sẽ không để Hoàng Thượng phải lo sầu đến như vậy đâu.

Hơn nữa, Đông xưởng và Tây xưởng này là do ai cai quản chứ? Thái giám Ty Lễ Vương công công đó! Toàn bộ thuế giám (giám sát thuế), quặng giám (giám sát khai mỏ), diêm giám (trông coi muối ăn), châu giám (giám sát việc khai thác ngọc trai) trên cả Đại Minh đều do Vương công công phái ra từ ty Lễ Giám. Những giám sát nội cung này được quyền tự thiết lập nha môn trưng thu thuế má. Dân gian có câu: " Bộ Hộ chiếm ba phần quyền thu thuế, ty Lễ Giám lại đến bảy phần”. Nếu nói ty Lễ Giám không xoay sở được chút bạc, vậy thực rất đáng ngạc nhiên.

Đúng là “thà đắc tội quân tử, chớ đắc tội tiểu nhân”. Tuy đúng là Vương Nhạc nắm quyền ty Lễ Giám, và trong các triều đại, chính các đời Đại Minh cũng có vô số giám sát nội cung bị gọi là "Bác bì" (lột da), nổi danh khắp nơi, nhưng ở triều đại Hoằng Trị, bọn giám sát này vẫn còn tương đối an phận thủ thường.

Tuy rằng Vương Nhạc cũng ngăn cấm không nổi những chuyện bóc lột lớp lớp bên dưới (dù sao tai mắt lão cũng không thể linh hoạt đến mức ấy), nhưng số bạc mà lão nộp lên kinh phần lớn là đủ, đúng theo sổ sách kiểm tra chéo với bộ Hộ và nội khố; số dư trong tay lão quả thực không nhiều.

Nhưng bây giờ Đới Nghĩa lại nói như vậy, mặc dù tất cả đều là "có thể", "biết đâu", "phỏng chừng", thực chất vẫn chưa đủ trọng lượng để truy cứu, nhưng đã khiến Chính Đức nổi lòng nghi ngờ. Chính Đức nghe xong, vừa phẫn nộ vừa kinh ngạc kêu lên:

- Vương Nhạc dám lừa dối trẫm như vậy sao? Lời khanh nói có đúng không?

Đới Nghĩa vội vã dập đầu đáp:

- Hoàng Thượng đã hỏi tới, nô tài chỉ theo việc mà luận bàn, căn cứ theo lẽ thường để phỏng đoán mà thôi, thật sự không có bằng chứng.

Lưu Cẩn cũng sớm bất mãn với Vương Nhạc, nhưng Vương Nhạc là nguyên lão bốn đời, trong cung tai mắt cũng rất đông, nếu không nắm chắc lão thật chẳng dám mở mồm nói bậy. Lúc này, được cơ hội hết sức hiếm có, lão bèn thừa cơ tâu:

- Những chuyện này nếu thật sự có người rắp lòng tư lợi, làm sao Đới công công có thể biết được chứ? Mật thám giỏi thì chỉ có ở Đông xưởng và Tây xưởng, nhưng hai xưởng này lại đều dưới quyền của Vương công công, ai dám nói ra nói vào?

Nghe thế, nghi vấn trong lòng Chính Đức càng thêm sâu. Nhịn không được, y cả giận bảo:

- Tiên hoàng tin yêu Vương Nhạc, giao phó hết Đông xưởng và Tây xưởng cho lão ta, từ lúc trẫm lên nắm quyền cho tới nay cũng chưa từng hỏi đến. Vương Nhạc nắm giữ hai xưởng đã lâu năm, e rằng toàn bộ dây mơ rễ má đều là thân tín của lão ta, đương nhiên sẽ không lộ cho trẫm biết tin tức. Hừ! Xem ra trẫm phải tra xét bọn chúng thật kỹ một phen.

Đới Nghĩa mừng rỡ ra mặt, song lại cố làm ra vẻ lo lắng, nhíu mày tâu:

- Đông xưởng và Tây xưởng đều do Vương công công nắm giữ, Cẩm y vệ lại vốn chịu sự quản thúc của Đông xưởng. Nay Hoàng Thượng muốn tra xét, sợ cũng không tra ra được gì đâu!

Chính Đức đập bàn "bốp" một cái, không phục:

- Đông xưởng và Tây xưởng còn không phải là do Hoàng Đế cho bọn chúng thiết lập ư? Đông xưởng, Tây xưởng đều là người của lão ta à? Hừ! Chẳng lẽ trẫm không thể lập thêm một xưởng nữa sao... Đúng rồi! Trẫm sẽ thiết lập thêm một Nội xưởng, do trẫm đích thân cai quản. Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan đều sẽ nằm dưới sự giám sát của Nội xưởng của trẫm, xem còn ai dám giấu gạt trẫm nữa không!

Bốn người Đới Nghĩa, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng vừa nghe, tim đập một phát nhảy tót lên tới cổ họng. Hoàng Đế đích thân cai quản hả? Nói như đùa, Hoàng Đế làm gì có thời gian mà quản lý xưởng vệ, còn không phải chỉ là đứng tên rồi kiếm kẻ khác làm thay à!

Miếng bánh từ trên trời rơi xuống đó nha, nói không chừng bộp một cái liền rơi giữa bốn người bọn mình! Giám sát Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan, ôi trời đất ơi...

Ngay khi bốn người đang nín thở đến độ ù cả tai vì thiếu dưỡng khí, thiên tử Chính Đức chợt vỗ bàn, phán ra một câu kinh thiên động địa:

- Đi gọi Dương Lăng về, bảo y tổ chức Nội xưởng cho trẫm!

- A!!!

Đám người Lưu Cẩn vừa nghe xong liền choáng váng mặt mày. Lâu nay các xưởng (Đông xưởng, Tây xưởng, nay thêm Nội xưởng) vẫn luôn do hoạn quan chấp chưởng, xưa nay chưa từng dùng ngoại thần, không lẽ Hoàng Thượng Chính Đức muốn Tiểu Lăng tử tiến cung(*) hay sao?

(*): ý là vung đao tự…


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.